Lễ Thánh Phê-rô và Phao-lô : Chung Một Tình Yêu Thiên Chúa | NVT
Lễ Thánh Phê-rô và Phao-lô : Chung Một Tình Yêu Thiên Chúa | NVT
Khi đọc tiểu sử hai vị thánh, ta thấy rất nhiều điểm khác biệt.
Thánh Phê-rô là ngư dân, bản tính “dân quê” thật thà chất phát, tính tình thẳng thắn, bộc trực…
Thánh Phao-lô là dân “thành thị”, có điều kiện học cao hiểu rộng, biết ứng xử khuôn phép và khéo léo…
Khi hai vị được Chúa gọi, cũng từ hai hoàn cảnh rất khác nhau, và khi dấn thân hoạt động phục vụ Giáo hội cũng ở những lãnh vực hoạt động khác nhau…
Nhưng, dù có rất nhiều điều khác biệt, hai tâm hồn của hai vị Thánh Nhân “rường cột” của Hội Thánh cùng có một điểm chung: Chung một tình yêu Thiên Chúa.
SUY NIỆM TIN MỪNG
LỄ THÁNH PHÊ-RÔ VÀ PHAO-LÔ
(Mt.16,13-19)
****
CHUNG MỘT TÌNH YÊU THIÊN CHÚA
Ông Phêrô bị bắt và được cứu cách lạ lùng
(1) Thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay ngược đãi một số người trong Hội Thánh. (2) Nhà vua đã cho chém đầu ông Giacôbê là anh ông Gioan. (3) Thấy việc đó làm vừa lòng người Dothái, nhà vua lại cho bắt cả ông Phêrô nữa. Bấy giờ đang là tuần lễ Bánh Không Men. (4) Bắt được rồi, nhà vua truyền tống ngục và giao cho bốn tốp lính canh gác, mỗi tốp gồm bốn người, định sau lễ Vượt Qua sẽ điệu ông ra cho dân chúng. (5) Ðang khi ông Phêrô bị giam giữ như thế, thì Hội Thánh không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông.
(6) Trong đêm trước ngày bị vua Hêrôđê đem ra xử, ông Phêrô ngủ giữa hai người lính, và bị khoá vào hai cái xiềng. Trước cửa ngục lại có lính canh. (7) Và kìa, thiên sứ của Chúa đứng bên cạnh ông, và ánh sáng chói rực cả phòng giam. Thiên sứ đập vào cạnh sườn ông Phêrô, đánh thức ông và bảo: "Ðứng dậy mau đi!" Xiềng xích liền tuột khỏi tay ông. (8) Thiên sứ nói tiếp: "Thắt lưng lại và xỏ dép vào !" Ông làm như vậy. Rồi thiên sứ lại bảo ông: "Khoác áo choàng vào và đi theo tôi!" (9) Ông liền theo ra, mà không biết việc thiên sứ làm đó có thật hay không, cứ tưởng là mình thấy một thị kiến. (10) Qua vọng canh thứ nhất, rồi vọng canh thứ hai, thiên sứ và ông tới trước cửa sắt thông ra phố. Cửa tự động mở ra trước mặt hai người. Ra đến ngoài, đi hết một đường phố, thì bỗng nhiên thiên sứ rời khỏi ông. (11) Lúc ấy ông Phêrô mới hoàn hồn và nói: "Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Hêrôđê, và khỏi mọi điều dân Dothái mong muốn tôi phải chịu". (Cv.12,1-11).
Ông Phao-lô vào cuối đời
(6) Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. (7) Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. (8) Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.
(17) Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. (18) Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. Amen. (2Tm.4,6-8.17-18).
TIN MỪNG
(13) Khi Ðức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Người hỏi các môn đệ rằng: "Người ta nói Con Người là ai?" (14) Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ". (15) Ðức Giêsu lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" (16) Ông Simon Phêrô thưa: "Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". (17) Ðức Giêsu nói với ông: "Này anh Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Ðấng ngự trên trời. (18) Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Ðá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. (19) Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy". (Mt.16,13-19)
_______________
SUY NIỆM
CHUNG MỘT TÌNH YÊU THIÊN CHÚA.
1. Hai con người rất khác biệt…
TIỂU SỬ THÁNH PHÊ-RÔ
Thánh Phê rô làm nghề chài lưới,tên thật là Simon là anh của Anrê . Khi ông Anrê được Thánh Gioan Tẩy giả giới thiệu cho biết Chúa Giêsu, trước hết ông gặp anh mình là Simon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”, rồi ông dẫn anh mình đén gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông và nói: “Anh là Simon con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Phêrô”. Một hôm, đang lúc Chúa Giêsu ở bờ hồ Giênêgiarét, dân chúng kéo đến nghe Người giảng đông quá, Người thấy Simon đang giặt lưới dưới thuyền thì xuống thuyền ông ngồi và giảng dạy dân chúng. Giảng xong Người bảo ông chèo thuyền ra khơi đánh cá. Mặc dù đã thức suốt đêm mà không được con cá nào, nhưng ông cũng vâng lời Chúa, chèo thuyền ra khơi thả lưới. Đến lúc kéo lên, lưới đầy cá. Ông quá khiếp sợ. Nhưng Chúa bảo: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ bắt người như bắt cá”. Thế là họ đưa thuyền vào bờ, và bỏ hết mọi sự mà theo Người.
Từ đó, Thánh Phêrô trung thành theo giúp Chúa cho đến chết. Trong số các Tông đồ, Ngài tin Chúa mạnh mẽ hơn hết, chính Ngài tuyên xưng “Chúa Giêsu là đấng Kitô, con Thiên Chúa”, và tuyên bố: Dù ai bỏ Chúa, còn Ngài luôn gắn bó với Chúa.Tuy nhiên, Ngài cũng là con người yếu đuối, Ngài đã chối Chúa ba lần như lời Chúa báo trước, nhưng Ngài đã biết ăn năn sám hối. Ngài được chứng kiến tất cả các diễn biến quan trọng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế, như lúc Chúa biến hình trên núi Tabo, lúc Chúa cầu nguyện trong vườn Giếtsêmani, lúc Chúa sống lại và sau khi sống lại. Chúa đã đặt Ngài làm thủ lãnh các Tông đồ và thay mặt Chúa điều khiển Hội Thánh. Chính Ngài là vị Giáo chủ đầu tiên. Thánh nhân luôn chu toàn sứ mạng Chúa trao phó, sống xứng đáng là vị mục tử. Bao nhiêu lần bị bắt bớ bách hại, nhưng vẫn một lòng trung kiên phụng sự Chúa cho đến chết, và chết treo ngược đầu xuống đất vì lòng tôn kính Chúa Kitô dưới thời Hoàng đế Nêron (khoảng năm 65 ).
(Sưu tầm từ Internet).
TIỂU SỬ THÁNH PHAOLÔ
1. SINH QUÁN VÀ GIA THẾ:
Thánh Phaolô có tên là Saolô, sinh vào thập niên đầu của công nguyên, tức là cùng thời với Chúa Giêsu. Tuy là người Do thái, thuộc chi họ Benjamin, nhưng Saolô sinh ra và lớn lên ở Tarsus, thủ phủ của tỉnh Cicilia, nay là miền nam Thổ nhĩ kỳ. Ngài vóc dáng thấp bé, nhưng thông minh vượt xa những người cùng lứa tuổi. Lúc nhỏ được giáo dục ở Tarsus là một trung tâm nổi tiếng về văn hoá và triết học. Lớn lên, Saolô được gởi lên Giêrusalem, học với Thầy Gamaliel Cả, theo những tiêu chuẩn khắt khe nhất của nhóm Biệt phái. Saolô là một người lỗi lạc trong lãnh vực văn chương và triết học của cả ba nền văn hóa chính thời đó là Hy lạp, La tinh và Do thái. Ngài thuộc lòng Kinh Thánh của người Do thái, tức là bộ Cựu Ước. Saolô hết sức nhiệt thành đối với truyền thống của cha ông (x. Gal 1:14; Phil 3:5-6; Cv 22:3; 23:6; 26:5).
2. CUỘC TRỞ LẠI:
Do sống cùng thời với Đức Giêsu và là ngôi sao đang lên của trường phái Pha-ri-sêu, chắc chắn Saolô phải biết những gì xãy ra ở Giê-ru-sa-lem. Có thể ông đã nhìn thấy và rất có thể ông đã nghe biết những bài giảng của Đức Giêsu. Và chắc chắn, Saolô rất ghét Ngài vì Ngài đang phá đổ những gì mà ông nhiệt thành tin tưởng. Sau cái chết của Đức Giêsu, ông tưởng đâu phong trào “lạc giáo” đó cũng tan theo. Nhưng ngược lại, những kẻ theo “con đường” (The Way) càng ngày càng đông. Saolô phải điên lên. Ông xin trát để lùng bắt tất cả những người theo “Đạo” và đưa về Giê-ru-sa-lem trừng phạt. Nhưng một biến cố xãy ra. Vào khoảng năm 33-35, trên đường từ Giê-ru-sa-lem tới Đa-mát để bắt bớ người theo Đạo, Saolô đã bị quật ngã và từ đó ông đã hoàn toàn thay đổi. Chính Chúa Kitô Phục sinh đã đích thân chọn ông làm tông đồ của Ngài. Chúng ta hãy đọc lại biến cố này qua lời tường thuật của thánh Luca (Cv 9:1-19).
3. HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO:
Sau cuộc trở lại, Sao-lô bắt đầu hoạt động tông đồ ngay tại Đa-mát (Cv 9:20-22). Sau đó Ngài lên Giê-ru-sa-lem gặp các tông đồ qua sự giới thiệu của Ba-na-ba rồi trở về Tác-xô (35-43 AD). Khoảng năm 43, Ba-na-ba đến tìm Sao-lô. Hai ông đã rao giảng và thành lập giáo đoàn tại An-ti-ô-khi-a. Từ khoảng năm 46 cho đến hết đời, Sao-lô còn gọi là Phao-lô, đã đặt bước chân truyền giáo của Ngài trên khắp các thành thị và hải cảng thuộc đế quốc La mã. Có thể chia những chuyến đi của Ngài làm ba cuộc hành trình truyền giáo chính:
Hành trình thứ nhất từ năm 46 đến năm 49. Xuất phát từ An-ti-ô-khi-a thuộc miền Sy-ri-a, Phao-lô và Ba-na-ba đã đi nhiều nơi thuộc đảo Sýp và miền Pi-xi-đi-a. Đến đâu các ngài cũng bắt đầu rao giảng cho người Do thái tại các hội đường, nhưng phần đông không đón nhận Tin Mừng, do đó các ngài đã quay sang rao giảng cho dân ngoại. Nhiều người không phải Do thái đã nhiệt liệt đón nhận Lời Chúa. Điều này khiến người Do thái đâm ra ghen tức và xúi giục dân chúng nổi lên đánh đuổi các ngài.
Trong giai đoạn này, một biến cố xãy ra do sự xung đột giữa các Kitô-hữu gốc Do thái và các Kitô-hữu gốc dân ngoại khiến đưa đến “công đồng chung” Giê-ru-sa-lem năm 49. Chúng ta sẽ tìm hiểu cặn kẽ biến cố này ở một bài khác.
Hành trình thứ nhì từ khoảng năm 50 đến năm 52. Cũng xuất phát từ An-ti-ô-khi-a thuộc miền Sy-ri-a, lần này Phao-lô không đi với Ba-na-ba mà đi với Xi-la và Ti-mô-thê. Các ông đi lên hướng bắc thuộc miền Ga-lát và Phy-ghi-a, rồi vượt biển đến Phi-líp-phê thuộc tỉnh Ma-kê-đô-ni-a, sau đó đến Thê-xa-lô-ni-ca. Bị xua đuổi, một mình Phao-lô phải ra đi đến A-thê-na, thủ phủ của Hy lạp, tại đây Phao-lô đã giảng cho hội đồng A-rê-ô-ga-pô (Cv 17:16-34) là nơi quy tụ các triết gia nổi tiếng nhất Hy lạp. Sau đó ngài rời đến Cô-rin-tô rao giảng và thành lập giáo đoàn tại đó. Cũng tại đây, Phao-lô đã viết bức tông thư đầu tiên gởi cho tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca (1 Tx) vào năm 51. Đây cũng là thư tịch tiên khởi cho cả Tân Ước. Tiếp theo là thư thứ hai 2 Tx.
Hành trình thứ ba từ khoảng năm 52 đến năm 56. Cũng xuất phát từ An-ti-ô-khi-a, Phao-lô đi qua miền thượng du đến Ê-phê-xô (Cv 19:1) rao giảng và thành lập giáo đoàn tại đó. Thời gian này, Phao-lô đã viết hai thư 1 và 2 Cô-rin-tô (khoảng năm 54,55) và thư Rô-ma (khoảng năm 55).
Hành trình cuối cùng (56-64). Vì sự ghen ghét của người Do Thái, khoảng năm 56 Phao-lô đã bị bắt, bị xét xử và bị cầm tù nhiều nơi. Ngài khiếu nại lên hoàng đế với tư cách là công dân La mã, do đó được giải qua La mã và bị giam lỏng tại đó. Trong thời gian này, ngài được tự do tiếp xúc với mọi người, đã “rao giảng Nước Thiên Chúa và dạy về Chúa Giê-su Ki-tô một cách mạnh dạn, không gặp ngăn trở nào” (Cv 28:31). Khoảng thời gian này, ngài đã viết thư cho Phi-lê-môn, thư cho các tín hữu Cô-lô-xê, thư cho các tín hữu Ê-phê-xô (năm 60), thư cho các tín hữu Phi-líp-phê (năm 61), thư thứ nhất cho Ti-mô-thê, thư gởi Ti-tô (năm 62), thư thứ hai cho Ti-mô-thê (năm 63).
4. TỬ ĐẠO:
Chúng ta không có sử liệu chắc chắn về cái chết của thánh Phao-lô. Tương truyền rằng, khoảng năm 64 Ngài bị chém đầu dưới thời hoàng đế Nê-rô. Sau đó, Ngài được an táng gần địa điểm hiện nay là Vương Cung Thánh Đường Thánh Phao-lô Ngoại Thành.
(Sưu tầm từInternet)
2. ... Nhưng “Chung một tình yêu Thiên Chúa”
Khi đọc tiểu sử hai vị thánh, ta thấy rất nhiều điểm khác biệt.
Thánh Phê-rô là ngư dân, bản tính “dân quê” thật thà chất phát, tính tình thẳng thắn, bộc trực…
Thánh Phao-lô là dân “thành thị”, có điều kiện học cao hiểu rộng, biết ứng xử khuôn phép và khéo léo…
Khi hai vị được Chúa gọi, cũng từ hai hoàn cảnh rất khác nhau, và khi dấn thân hoạt động phục vụ Giáo hội cũng ở những lãnh vực hoạt động khác nhau…
Nhưng, dù có rất nhiều điều khác biệt, hai tâm hồn của hai vị Thánh Nhân “rường cột” của Hội Thánh cùng có một điểm chung: Chung một tình yêu Thiên Chúa.
Tất cả đều bắt đầu từ một tình yêu hết lòng đối với Thiên Chúa, đó là nguồn sức mạnh để mọi môn đệ, mọi Ki-tô hữu, mọi tâm hồn tiến bước.
Chỉ một - Một tình yêu trọn vẹn dành cho Thiên Chúa.
Chung một tình yêu Thiên Chúa, là sức mạnh dấn thân, là sự gắn bó hiệp nhất nên một, trong yêu thương, không có sự phân rẽ.
Thế giới ngày nay đang tách dần thành muôn mảnh, rời rạc, lạnh lùng. Chuyện đời đã thế, chuyện đạo cũng bị dòng đời lôi cuốn không ít, bởi không có một tình yêu chân thật, một tình yêu lớn, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu đại đồng nhân loại. Tình yêu vượt trên mọi thứ ích kỷ hẹp hòi của cá nhân, đoàn thể, Đất Nước, phe nhóm, vây cánh… “Tình yêu ấy cho con người nhận nhau là huynh đệ có chung một Thiên Chúa là Cha”.
"Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm"(ama et fac quod vis) (Augustinô).
Nếu thế giới tràn đầy suối nguồn tình yêu Thiên Chúa, tràn đầy tình yêu tha nhân, rồi … “làm gì thì làm”, chắc người ta sẽ lo làm thực phẩm, lo ấm no, hạnh phúc, chứ chẳng ai lo chế tạo vũ khí bom đạn làm gì !
Người ta kêu gọi “chung sống hòa bình”, trái đất là mái nhà chung, tứ hải giai huynh đệ… nhưng tất cả chỉ là những ngôn ngữ “vô hồn”, kiểu “muốn hòa bình hãy chuẩn bị chiến tranh”, người ta sống cho ai và vì ai? làm gì và về đâu? Tất cả chỉ là ảo ảnh nếu không có ánh sáng Tình Yêu Thiên Chúa.
Đối với Phê-rô: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy." (Ga 21,17)
Đối với Phao-lô: "Tôi, tôi thuộc về Phaolô; - "Tôi về phe Apollô"; - "Còn tôi, tôi về phe Kêpha"; - "Và tôi thuộc về phe Chúa Kitô". Chúa Kitô bị phân chia rồi sao? Có phải Phaolô đã chịu đóng đinh vì anh em đâu? Hay là nhân danh Phaolô mà anh em chịu phép rửa? (1Cr.1,10-13.17).
Cuối cùng cho một chuyện tình chân thật là hy sinh trọn vẹn cho nhau. “Hy sinh trọn vẹn cho nhau” là dám sống chết vì nhau.
"Không có tình yêu thương nào lớn lao hơn tình yêu thương của kẻ đã hiến mạng sống mình vì người mình yêu" (Jn 15:13).
Với Phao-lô: “Tương truyền rằng, khoảng năm 64 Ngài bị chém đầu dưới thời hoàng đế Nê-rô. Sau đó, Ngài được an táng gần địa điểm hiện nay là Vương Cung Thánh Đường Thánh Phao-lô Ngoại Thành”.
“Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin”. (2Tm.4,6-8.16-18).
Với Phê-rô, dù yếu đuối, dù bao lần vong thề bội ước, ngài cũng đã sống trọn vẹn với quyết tâm của ngài.
"Con sẽ thí mạng con vì Thầy".(Gioan 13,37)
Cách đây chừng 20 năm, người ta đã dựa vào cốt truyện trong tác phẩm "Quo Vadis?" (Thầy đi đâu?) của văn hào Công giáo Balan, Henryk Sienkiewicz (1846-1916, giải Nobel 1905), để đóng môt cuốn phim nổi tiếng thế giới cũng mang tựa đề ấy.
Từ đâu có cốt chuyện ấy? Ai đã nói tiếng “Thầy đi đâu?”
Theo truyền khẩu giáo dân thời Hội Thánh sơ khai, người ta được biết rằng vào các thế kỷ I-IV, các hoàng đế Rôma đã ra công bách hại đạo Chúa hết sức hung hãn: nào là đâm chém, nào là đóng đinh thập giá, nào là cho thú dữ ăn thịt nơi hý trường Colisê để nhân dân thoả thích thưởng ngoạn, nào là buộc vào cột trụ, tẩm dầu rồi đến đêm châm lửa đốt cháy vùn vụt như bó đuốc. Thật muôn phần khủng khiếp.
Phêrô, thủ lãnh của Hội Thánh, lúc ấy bị truy nã gắt gao theo lệnh của hoàng đế Nêron. Vì thế ngài có ý định tạm lẩn tránh ra khỏi thành Roma một thời gian, cho qua cơn sóng dữ. Một đêm nọ, người ta trông thấy một bóng dáng đàn ông đang hồi hộp lần bước trên con đường Appia. Lúc gần đến cửa Capena, bỗng nhiên ông ta đứng khựng lại! Từ xa một người đang tiến thẳng về phía ông. Ông dụi mắt, rồi quá đỗi mừng vui, Phêrô ôm chầm lấy người ấy và hỏi: "THƯA THẦY, THẦY ĐI ĐÂU?" Thì ra người ấy là Chúa Giêsu, tội nhân bị xử tử mấy mươi năm về trước. Đáp lai câu hỏi của Phêrô, Người ôn tồn nói: "Phêrô, vì con sợ gian khổ, con định đào tẩu, nên Thầy phải vào thành Roma để bị đóng đinh thêm một lần nữa!" Nói xong, Chúa Giêsu biến mất..... Phêrô hiểu ý Thầy bèn quay gót trở lại thành Roma, chấp nhận mọi gian khổ, củng cố đức tin của anh em giáo hữu, xông pha giữa muôn nghìn nguy hiểm cho đến năm 67 thì bi bắt và bị tống giam ở nhà ngục Tullianum. Rồi sau đó thánh nhân cũng được diễm phúc đi lại con đường thập giá của Thầy Chí Thánh Giêsu, không phải đường lên núi sọ ở Giêrusalem mà là đường dẫn đến hí trường Caligula, trên đồi Vatican. Nhưng khi đến nơi, vì cảm thấy mình không xứng đáng được chết như Thầy, nên Ngài đã xin phép cho được đóng đinh ngược, đầu chúi xuống đất.
Để kỷ niệm nơi Chúa hiện ra cho Phêrô, giáo hữu đã xây cất ngay tai chỗ đó một nhà thờ mang tên "Quo Vadis, Domine?" (Internet).
Lạy Chúa,
Xin cho chúng con
những người tự nhận mình là Ki-tô
biết mang trái tim yêu thương nhiệt tình
dành trọn vẹn cho Chúa và tha nhân.
Để khi cuộc chiến đấu đã về đến cùng đích,
con tìm thấy niềm an bình hoan lạc vô biên.
Vì hôm qua, hôm nay…
và mãi mãi…
con thuộc về Chúa. Amen.
Lm. Antôn NGUYỄN VĂN TIẾNG